Kỷ niệm 128 năm Ngày sinh của Chủ tịch Tôn Đức Thắng (20/8/1888 – 20/8/2016).

17/08/2016
Tiểu sử và cuộc đời cách mạng của đồng chí Tôn Đức Thắng.
Quê hương đồng chí Tôn Đức Thắng ở Cù lao Ông Hổ, xã Mỹ Hoà Hưng, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên, nay là thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Đây là một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi nhưng cũng đầy thử thách khắc nghiệt. Người dân trên Cù lao Ông Hổ cần cù lao động, giàu lòng thương người và rất dũng cảm, táo bạo trước thiên tai.
1.    Tiểu sử đồng chí Tôn Đức Thắng 
Đồng chí Tôn Đức Thắng sinh ra trong một gia đình nông dân khá giả. Thân phụ là cụ Tôn Văn Đề và thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Dị, đều là những người nông dân cần cù, hiền lành, chất phác. Đồng chí là con trai đầu lòng, có một em trai và hai em gái. Thời thơ ấu, đồng chí được gia đình cho học chữ Nho, chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Người thầy đầu tiên là nhà nho yêu nước Nguyễn Thượng Khách, trong nhóm “Đông kinh nghĩa thục”. Thầy Năm Khách thường kể cho cậu học trò Tôn Đức Thắng về những sự kiện ở quê hương, giảng giải đạo làm người, giáo dục tình yêu đất nước và lòng trung thành với sự nghiệp của cha ông. Truyền thống quê hương và tấm gương anh dũng chống thực dân Pháp của các nghĩa quân Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ Khoa Huân, Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Dương,…đã in sâu trong tâm hồn Tôn Đức Thắng, thắp lên trong lòng cậu học trò những dự định lớn lao.
Năm 1906, Tôn Đức Thắng tốt nghiệp tiểu học ở trường tỉnh Long Xuyên, từ chối ra làm việc cho các chức sắc ở làng, từ chối điều kiện thuận lợi gia đình tạo cho để trở thành công chức. Năm 1907, với tuổi thanh niên rực lửa, trong lòng mang nặng truyền thống yêu nước, thương nòi, nhân nghĩa, khoan dung của quê hương và nỗi nhục, nỗi đau của người dân nô lệ bị mất nước, mất độc lập tự do, Tôn Đức Thắng lên Sài Gòn học việc và dự kiến thực hiện hoài bão của đời mình. Ý chí tự lập ngay từ khi tuổi còn trẻ là một nét độc đáo góp phần tạo nên tính cách toàn diện của Tôn Đức Thắng sau này.
2. Cuộc đời hoạt động cách mạng
Việc Tôn Đức Thắng rời quê hương lên Sài Gòn, chọn con đường trở thành người thợ là bước ngoặt đầu tiên trong cuộc đời. Vốn thông minh, có tính độc lập cao, có năng khiếu lao động kỹ thuật, giàu lòng thương người, anh đã nhanh chóng hoà mình vào cuộc sống của giai cấp công nhân và phong trào đấu tranh của họ, nhận thấy sức mạnh của giai cấp công nhân và những bất công mà họ đang phải chịu đựng. Lý tưởng, khát vọng làm những việc hữu ích cho đất nước, dân tộc và giai cấp thôi thúc anh hành động. Trong anh, đã hình thành sự kết hợp tư tưởng yêu nước với tư tưởng cách mạng.
Năm 1909, anh tham gia vận động anh em học sinh lính thuỷ bỏ học; năm 1910, tham gia vận động anh chị em công nhân Sở Kiến trúc cầu đường và nhà ở Sài Gòn chống bọn chủ cúp phạt, đánh đập vô lý và đòi tăng lương; năm 1912, tham gia lãnh đạo cuộc bãi công của công nhân Ba Son và vận động học sinh trường Bá Nghệ Sài Gòn bãi khoá. Thắng lợi của cuộc đình công củng cố cho Tôn Đức Thắng niềm tin vào sức mạnh của giai cấp công nhân và đem lại cho anh những kinh nghiệm bước đầu trong việc vận động đoàn kết tập hợp công nhân đấu tranh.
Năm 1915, Tôn Đức Thắng vào học trường Cơ khí châu Á ở Sài Gòn (trường Bá Nghệ Sài Gòn). Những hoạt động ở năm thứ nhất tại trường đã bộc lộ năng lực tập hợp đoàn kết, năng lực tổ chức thực tiễn, tinh thần đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù chống lại áp bức, cường quyền của Tôn Đức Thắng.
Năm 1916, Tôn Đức Thắng bị động viên trở thành lính thợ làm việc trên chiến hạm France. Việc Tôn Đức Thắng tham gia vào sự kiện kéo cờ đỏ trên chiến hạm France ở Biển Đen tháng 4/1919 có ý nghĩa lớn bởi anh là người Việt Nam đầu tiên dũng cảm tham gia bảo vệ chính quyền Xô Viết trẻ tuổi và Cách mạng Tháng Mười Nga vào thời điểm quan trọng. Đây là dấu mốc đánh dấu sự trưởng thành về ý thức và định hướng chính trị trong cuộc đời đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc của Tôn Đức Thắng.
Sau vụ binh biến ở Biển Đen, bị trục xuất khỏi nước Pháp, Tôn Đức Thắng trở về Sài Gòn tích cực tham gia hoạt động nghiệp đoàn và trở thành người tổ chức và lãnh đạo Công hội bí mật năm 1920, Công hội đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Tôn Đức Thắng cùng Công hội của mình lãnh đạo các cuộc bãi công của công nhân ở Sài Gòn-Chợ Lớn. Đây là giai đoạn hoạt động rất sôi nổi của Tôn Đức Thắng trong phong trào công nhân.
Năm 1927, Tôn Đức Thắng được kết nạp vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, được cử làm Uỷ viên Ban Chấp hành Kỳ bộ, Bí thư Thành bộ Sài Gòn. Từ đây Tôn Đức Thắng và Công hội bí mật hoạt động dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Tháng 7/1929, đồng chí bị thực dân Pháp bắt giam ở khám lớn Sài Gòn, sau đó bị kết án 20 năm khổ sai, tháng 7/1930, bị đày ra Côn Đảo. Tại đây đồng chí đã tham gia vận động thành lập chi bộ cộng sản nhà tù Côn Đảo và là một trong những chi uỷ viên đầu tiên. Gần mười bảy năm ở ngục tù Côn Đảo là giai đoạn khắc nghiệt nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí.
Ngày 23/9/1945, đồng chí từ Côn Đảo trở về. Ngày 15/10/1945, đồng chí được bầu vào Xứ uỷ Nam Kỳ, phụ trách Uỷ ban kháng chiến chỉ huy các lực lượng vũ trang Nam Bộ. Tháng 12/1945, Uỷ ban kháng chiến miền Nam Việt Nam và các khu 7, 8, 9 được thành lập, đồng chí được giao nhiệm vụ tổ chức hậu cần.
Ngày 06/01/1946, đồng chí được bầu làm đại biểu Quốc hội khoá I. Tháng 02/1946, đồng chí được điều động ra Hà Nội. Ngày 16/4/1946, đồng chí làm Phó Trưởng đoàn Đoàn đại biểu Quốc hội sang thăm Pháp. Ngày 02/5/1946, Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) được thành lập, đồng chí được bầu là Phó Hội trưởng. Ngày 28/10/1946, đồng chí được bầu làm Trưởng đoàn Chủ tịch kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I và kết thúc kỳ họp, đồng chí được bầu là Phó Trưởng ban Thường trực Quốc hội.
Năm 1947, đồng chí được cử làm Tổng Thanh tra của Chính phủ. Ngày 30/4/1947, đồng chí được giao đảm nhiệm chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ nhưng đến ngày 25/7/1947, đồng chí xin từ chức, nhường chức vụ trên cho các nhân sĩ yêu nước.
Tháng 01/1948, đồng chí Tôn Đức Thắng được cử làm Trưởng ban Trung ương vận động thi đua ái quốc. Năm 1948, đồng chí giữ chức Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội.
Ngày 17/5/1950, Hội hữu nghị Việt - Xô được thành lập, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Hội.
Tháng 02/1951, tại Đại hội toàn quốc thống nhất Việt minh - Liên Việt, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt là Mặt trận Liên Việt).
Tháng 9/1955, tại Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc, đồng chí được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ngày 27/02/1957, đồng chí được cử làm Trưởng ban chỉ đạo thanh toán nạn mù chữ Trung ương.
Ngày 15/7/1960, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá II, đồng chí được bầu làm Phó Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 02/9/1969, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá III, đồng chí được bầu là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 30/3/1980, đồng chí qua đời, hưởng thọ 92 tuổi.
Kỷ niệm 128 năm Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng là dịp để chúng ta ôn lại truyền thống vẻ vang của dân tộc, để hiểu hơn giá trị thắng lợi của sự nghiệp cách mạng đã đạt được, tiếp nối truyền thống ông cha bằng những thắng lợi của cách mạng hôm nay; học tập tấm gương đạo đức sáng ngời của lớp người đi trước, tự tu dưỡng và rèn luyện đạo đức cách mạng để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân./.
                                                                                                                                                 Sưu tầm
Các tin liên quan